Thứ Bảy, 5 tháng 10, 2013

Ngày chớm Thu ở Halifax


Tôi lấy chuyến bay American Airlines từ Paris về New York sáng 11/9/2001. Tôi vẫn bị khó ngủ trên những chuyến bay xa, nên chập chờn không biết mình có đang ngủ hay không, dù hôm trước ở Paris đã có nhiều ly rượu vang Pháp dễ làm say ngủ. Buổi trưa ăn bữa cơm dài bốn tiếng để nói chuyện với hai người bạn. Hiệu ăn Ngọc Xuyến, nơi chúng tôi ngồi với các món nổi tiếng như phở và bánh giò, chiều khách nhưng cũng cần đóng cửa lúc bốn giờ. Chúng tôi phải chạy sang tiếp tục câu chuyện cho tới sáu giờ ở một quán cafe đầu phố. Rồi chạy ra xem vườn Luxembourg vào đầu thu để chụp vội vài bức hình kỷ niệm cho chuyến đi Paris ngắn này. Sau đó vợ chồng một người bạn khác rủ đi ăn bữa cơm tối chia tay với vài ly vang đỏ ở Chez Papa, một hiệu nổi tiếng ở quận 14.

Giữa cơn mơ màng nửa tỉnh nửa mê, tôi chợt thức giấc vì nghe giọng nói căng thẳng của người phi hành trưởng qua loa phóng thanh: “Chúng tôi xin báo một tin khẩn cấp và không vui vừa xảy ra ở Mỹ. Có hai chuyến máy bay từ Boston bị không tặc cướp và cho đâm thẳng vào hai tòa nhà của World Trade Center ở New York City, và một chuyến khác cũng bị không tặc cướp sau khi cất cánh ở phi trường Dulles thuộc khu Washington D.C. và cho nổ lúc đâm vào Pentagon. Ngoài ra nguồn tin khác chưa được xác nhận rõ là một chiếc máy bay thứ tư khác cũng bị cướp sau khi cất cánh ở Newark để đi San Francisco và bị nổ ở một vùng ngoại ô của thành phố Pittsburgh.”

Tôi hoảng hốt ngồi chồm dậy, không tin ở tai mình, nhìn sang người hành khách bên cạnh và hỏi: “Tôi vừa nghe loáng thoáng về chuyện động trời không tặc cho nổ máy bay ở New York City và Washington D.C., không biết tai tôi có nghe đúng hay không?” Ông hành khách đó gật đầu và làm tôi tỉnh ngủ hẳn: “Ông đã nghe rất chính xác!” Ít phút sau, chúng tôi đều lắng nghe các bản tin cập nhật hóa tình hình an ninh ở Mỹ từ người phi công trưởng. Ông này cho biết thêm máy bay của chúng tôi không được phép đáp xuống New York vì các phi trường ở Mỹ đều trong tình trạng hỗn loạn và phần lớn phải đóng cửa vì lý do an ninh. Máy bay chúng tôi sẽ phải sang Canada và đáp xuống Montreal hay Toronto trong một tiếng rưỡi nữa. Mọi người trong máy bay nhìn nhau im lặng, ngay cả dò xét xem có gì lạ ở các người hành khách khác để kịp báo động. Ai cũng cố giữ bình tĩnh, nhưng nét lo âu lộ rõ trong ánh mắt. Ai cũng cố dùng điện thoại Aircom gọi xuống đất hỏi thêm tin tức để báo cho nhau và bàn luận trong máy bay, nhưng phải chờ khá lâu vì hệ thống điện thoại cũng bị đình trệ.

Chỉ mười phút sau, tiếng người phi công trưởng lại vang lên trên loa: “Vì nhu cầu khẩn cấp, chúng tôi được lệnh phải đáp xuống trong 15 phút nữa ở phi trường gần nhất là Halifax, một hòn đảo thuộc vùng Nova Scotia của Canada. Mời quý vị hành khách buộc chặt dây lưng an toàn để sửa soạn đáp.” Chỉ một câu nói giản dị, không có đe dọa cấp thời đến chiếc máy bay hay sự an toàn của hành khách, nhưng cảm tưởng bất an, bồng bềnh không chắc chắn vẫn tràn ngập đám hành khách, làm cho mười lăm phút chờ đợi thật dài và hồi hộp. Những biện pháp an toàn được công bố nếu lúc đáp có gì trục trặc, vì có hơn 50 máy bay lớn khác cũng đáp xuống ở đây. Vì đây là phi trừơng nhỏ chỉ có ít cầu thang cho hành khách ra khỏi phi cơ nên sẽ phải đợi lâu trên máy bay, kể cả thì giờ đợi làm thủ tục an ninh nhập nội cho gần 8000 hành khách bỗng dưng bị “kẹt” ở đây.



Lúc đó là 1 giờ 30 trưa, giờ này đáng nhẽ chúng tôi đã được đáp xuống phi trường Kennedy ở New York. Nhưng qua các mẩu tin lượm lặt qua điện thoại, khu Manhattan chung quanh World Trade Center đang trải qua cảnh địa ngục với hai tòa nhà lớn đã bị sụp xuống và xe cộ chung quanh bốc cháy. Tin mới cho biết các phi trường của Mỹ và các quốc gia Tây Âu đều đóng cửa. Riêng Canada cũng đóng cửa biên giới với Mỹ để tránh bị nhóm khủng bố xâm nhập. Như vậy là hết hy vọng cho chúng tôi tìm phương tiện về một tỉnh lớn hơn như Montréal rồi từ đó lái xe về các tỉnh miền đông nước Mỹ. Mọi người lại cố dùng điện thoại di động để gọi về gia đình hay nhiệm sở báo tin sắp đáp xuống Halifax và hỏi thêm tin bên Mỹ.

Rồi những phút chờ đợi đó cũng qua đi, máy bay đáp xuống phi đạo và chúng tôi nhìn thấy hàng dài những máy bay đã xuống trước, nối đuôi nhau như trong một bãi parking đang kẹt xe. Lúc bánh phi cơ vừa đụng mặt đất, ai nấy thở phào nhẹ nhõm và vỗ tay khen ngợi sự bình tĩnh và chăm sóc ân cần của phi hành đoàn chuyến AA 45, nhất là nhóm tiếp viên vẫn luôn nở nụ cười với các ly nước tiếp liền tay. Rượu và cafe hay trà đã không được rót từ lúc có tin lộn xộn để tránh làm hành khách thêm cảm xúc hay bị khích động. Trong tình trạng đó, chúng tôi đã phải ngồi liền tám tiếng trong máy bay. Cuối cùng, khi đêm đã xuống, máy bay “taxi” tiến dần vào chỗ đậu, nhìn ngọn hải đăng Halifax qua cửa sổ máy bay sao thấy buồn và cô đơn kinh khủng, lại nghe thêm các tin tức qua điện thoại từ bạn bè hay thân nhân là các trường học và văn phòng đều đóng cửa ở Washington và New York. Tôi cũng sốt ruột vì phải về dạy lớp ở American University vào ngày sau. Rồi lại có cả tin TT Bush đã cho máy bay thả bom ở Afghanistan (về sau mới biết đây là tin thất thiệt!) làm cho không khí thêm nặng nề.

Bất chợt tiếng người phi công trưởng báo tin hành khách sắp được xuống phi cơ, ai cũng vui mừng vì đã nghĩ đến trường hợp phải ngủ qua đêm trên máy bay. Chúng tôi được báo thêm đêm nay sẽ trú trong một khu triển lãm đóng cửa hay trường học bỏ trống, và các phương tiện sẽ do hội Hồng Thập Tự địa phương xếp đặt. Hành khách rộn rịp tay xách nách mang các hành lý cá nhân, còn vali nặng thì bỏ lại trong khoang hành lý, với hy vọng được sớm bay về cái “thiên đường nhỏ” của mình ngày mai!

Các âu lo trằn trọc của cuộc sống vật chất hàng ngày trở thành vô nghĩa. Niềm bất ổn trong cái sắc không của cuộc đời chợt chớm trong ý nghĩ. Chúng tôi nhìn nhau cố tạo một nụ cười lịch sự, ân cần với nhau hơn lúc mới lên máy bay ai nấy loay hoay tranh dành kiếm chỗ để hành lý trong các ngăn trên đầu. Gửi lời hẹn gặp lại nhau ngày mai một cách lạc quan dù chưa biết sẽ đi đâu và tình hình sẽ biến chuyển ra sao bên Mỹ.

Tôi thò đầu ra khỏi máy bay, gặp ngay cơn gió mới chớm thu của Canada nhưng đã lạnh rùng mình. Welcome to Halifax với những ngọn đèn tù mù! Welcome to Canada! Xứ láng giềng thanh bình của Hoa Kỳ, được cơ quan phát triển Liên Hiệp Quốc (UNDP) xếp hạng trong nhiều năm là xứ đáng sống nhất với sự phát triển kinh tế xã hội thăng bằng và ít tội phạm hay bất công xã hội, vẫn được nhà văn Trà Lũ ở Toronto, cũng là thầy giáo Anh văn ở CVA của tôi, ca tụng hết lời là “thiên đàng hạ giới.”

Cách đây nhiều năm tôi đã tốt nghiệp tại trường Laval ở Quebec, và nhờ đó tôi đã biết rất rõ lòng tử tế và tính hiếu khách của những người bạn xứ này. Thuở đó, lúc tốt nghiệp và sang Mỹ học tiếp, tôi vẫn tiếc chưa có dịp đi chơi thăm Halifax. Ai ngờ đây là cơ hội tôi thăm hòn đảo du lịch này, trong một tình huống khá éo le!


Khi đoàn xe bus chở chúng tôi đến chỗ tạm trú ở Exhibition Park thì đã gặp ngay quang cảnh rộn rịp với nhiều người đã đến trước. Nhóm chúng tôi được xếp chỗ ngủ dưới đất trong khu triển lãm rộng nhưng khá lạnh vì các cửa hở có gió mạnh thổi vào. Cái “bao ngủ” và tấm chăn lớn cũng chưa đủ ấm vì tôi không đem theo áo len. Tôi trằn trọc không ngủ được, bỏ ra phòng đợi có máy sưởi và các ly trà nóng ấm áp hơn, và theo dõi tin tức của đài CNN để xem lại các hình ảnh khủng khiếp ở khu World Trade Center mà tin tức đã nghe nói lúc ban ngày. Cũng không quên được cô em đã ân cần mua cho tấm thẻ điện thoại trả trước để có dủ phương tiện liên lạc trong mấy hôm với bạn bè người thân.

Bên những xúc động vì các cảnh tang thương của New York và Washington D.C., tôi cũng tìm lại được vài hình ảnh quen thuộc đã thấy (déjà vu) của tháng 4  năm 1975 lúc tôi cũng đã xin làm tình nguyện (volunteer) cho Hội Hồng Thập Tự để giúp những người di tản ở Camp Pendleton (California) bên Mỹ. Bây giờ, tôi ở trong hoàn cảnh “tị nạn” do cuộc khủng bố ở Mỹ và cũng được những tình nguyện viên Hồng Thập Tự ở Halifax giúp đỡ lại. Sự ân cần tử tế của những người địa phương này làm tôi cảm động. Nhưng tôi còn xúc động hơn khi cảm nhận mãnh liệt mối “nợ đồng lần” trong thiên hạ, triết lý đã được học thuở nhỏ là khi mình giúp một ai thì có ngày sẽ được kẻ khác đáp lại.

Đêm dài Halifax lạnh lẽo hầu như thức trắng rồi cũng qua. Buổi sáng thức dậy với bữa ăn nóng đầy đủ và sự ân cần của nhóm người tình nguyện. Nhưng hình ảnh khó quên nhất là những người dân địa phương đang xếp hàng chờ tìm những người trong trại muốn đi ra ngoài để mua bán hay chở về nhà họ tắm rửa vì không có nhà tắm ở khu tạm trú này. Tôi cũng ghi tên đi về nhà của một gia đình địa phương với cặp vợ chồng và ba người con hiếu khách. Tắm shower xong tôi tỉnh táo hẳn để tính chuyện tìm phương tiện rời Halifax về lại Mỹ. Buổi chiều tôi lại được gặp một anh bạn trẻ khác chở xe đi dùng Internet liên lạc với người quen và ăn tối. Sau đó tôi kiếu từ về sớm để đợi gặp Philip Campbell, người  đại diện hãng Swiss Air, xin gia nhập đoàn hành khách 100 người sẽ ra đi trong đêm bằng phương tiện thuê riêng. Chúng tôi thức dậy lúc bốn giờ sáng thứ năm 13/9 để sửa soạn ra xe bus đi hai tiếng đến Yarmouth là chỗ đáp một tầu thủy du lịch chở đi Portland thuộc tiểu bang Maine.



Sau 11 tiếng lênh đênh trên biển - càng tô đậm thêm cái cảm giác lênh đênh bất định do các biến động lớn mang lại - tàu cập bến Portland. Sau khi lên bờ, chúng tôi lên ba chiếc xe bus chờ sẵn trực chỉ Boston. Đến Boston lúc 11 giờ đêm, tất cả chia tay. Tôi xiết chặt tay Philip để cám ơn. Sau đó ngủ qua đêm trong một khách sạn ở Boston để sáng hôm sau đáp xe lửa về Washington D.C. Tôi như qua một giấc mơ dài khi về đến “thành phố nhà” lúc hai giờ trưa thứ sáu 14/9, mừng vui  nhìn thấy lại "giang sơn" Potomac êm đềm, chấm dứt chuyến đi kéo dài tổng cộng hơn 30 tiếng từ hòn đảo Halifax của Canada đến thủ đô nước Mỹ bằng nhiều phương tiện khác nhau mà trong lúc bình thường chắc không ai có thể nghĩ tới. Nhớ lại nỗi vất vả lên bến xuống thuyền của hai ngày qua, tôi thấy như mình đang sống trong tình trạng chiến tranh. Mà thực tế hình như quả đúng như thế thật.

Về nhà vẫn nhớ mãi hai ngày chớm thu tạm trú ở Halifax, cũng gợi nhớ những mùa thu trước của Québec.  Nhưng đêm đầu lạnh lẽo đó Halifax khác xa cảnh rực rỡ của những hàng đèn đại lộ Champs-Elysées hay khách sạn 4 sao của Paris hoa lệ mà tôi vừa rời hôm trước. Mới đêm hôm trước, tôi còn ở trong một thế giới khác, thế giới sáng trưng của an bình chắc chắn và những giấc mộng đẹp, mà đêm hôm sau nằm trên nền đất đã trằn trọc không ngủ được trong cái lạnh của trại tạm trú, với hình ảnh tang thương đổ vỡ của một New York vốn đầy những building chọc trời cứ luẩn quẩn trong đầu. Hình như lần đầu tiên tôi chứng nghiệm một cách thiết thân tính chất vô thường của mọi sự ở đời.

Nhưng Halifax đối với tôi mới là cuộc đời thật sự, vì tôi đã gặp ở hòn đảo tối tù mù đó sự ấm áp của tình người trong cơn khủng khiếp đầy tang tóc của hoạn nạn. Xin cám ơn vùng đảo nhỏ, cám ơn Canada với những người dân hiếu khách đầy ân tình đã cho tôi chỗ an trú tinh thần, làm chỗ tựa vững chãi cho chút ý nghĩ giác ngộ mới chớm nở đêm đó về ý nghĩa thật của cuộc sống. Thỉnh thoảng trong nỗi nhớ mùa thu Canada, hai ngày ở Halifax vẫn cho tôi một kỷ niệm sâu đậm khó quên.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét